HOA NGỮ NHỮNG NGƯỜI BẠN
BỔ
NGỮ SỐ LƯỢNG 数量补语
Bổ ngữ là gì? Hiện nay có rất nhiều học sinh
của môn tiếng Hoa có thể nói như mưa, như gió các bổ ngữ tiếng Hoa, vậy mà nếu ai chỉ hỏi một câu: “Bổ
ngữ là gì?” thì phần lớn đều ngây người ra, và không thể trả lời một cách rõ
ràng. Vậy là không ổn, ngay cả cái định nghĩa về nó cũng không nắm bắt thì làm
sao mà gọi là hiểu. Cũng giống như: “danh từ – động từ – tính từ” nếu
ai đó không hiểu cái định nghĩa về chúng thì khó mà học được ngoại ngữ, nếu học
được thì là học vẹt, hoặc tốn rất nhiều thời gian.
Bổ ngữ của tiếng Trung cũng giống như “thì của
tiếng Anh”, nếu không hiểu các thì của tiếng Anh cũng chẳng bao giờ học được tiếng
Anh. Bổ ngữ tiếng Trung có 7 loại nó giống như 7 mạch máu của tiếng Trung, nếu
không có 7 mạch máu này thì thôi xong.
Bổ ngữ là từ đứng sau động từ hoặc tính từ để
bổ nghĩa cho động từ hoặc tính từ đó. Từ nào giải thích cho ta biết làm cái gì,
từ đó gọi là danh từ (tân ngữ).
Từ nào ở sau động từ mà không phải danh từ thì từ đó
là bổ ngữ. Từ đó giải thích
cho ta biết làm như thế nào, làm bao lâu...
– Bổ ngữ số lượng
là một loại bổ ngữ dùng để biểu thị sự so sánh về số lượng giữa hai nhân vật,
hai vấn đề hoặc hai sự việc. (ta chỉ việc để số lượng từ sau tính từ (động từ
trìu tượng) trong câu chữ “bǐ”
– Bạnnào đã học qua câu chữ “bǐ”
thì tự dưng sẽ hiểu luôn bổ ngữ số lượng (ta chỉ việc để số lượng từ sau tính từ
(động từ trìu tượng) trong câu chữ “bǐ”) là ok. Tức là nếu chưa học câu chữ
“bǐ” thì cũng không cần học BNSL nữa.
Tôi nhanh hơn cô ấy我比她快wǒbǐtā kuài (đây là câu chữ “bǐ”)
Tôi nhanh hơn cô ấy một tí我比她快一点儿wǒbǐtā kuài yīdiǎnr (Từ 一点儿 trong câu
chính là bổ ngữ số lượng)
– Khi biểu đạt sự khác biệt nhỏ
dùng “一点儿yīdiǎnr
”, “一些yīxiē ”: một tý, một chút đặt sau tính từ (động từ trừu tượng) trong câu chữ “bǐ”
Tôi
đen hơn cô ta một tý我比她黑一点 (一些) wǒbǐtā
hēiyīdiǎn (yīxiē)
Chú ý: khi chúng ta so sánh về sự việc, hoặc nhân vật thì
ta dùng theo cách ở trên, nhưng nếu chúng ta so sánh về động tác, hành động thì
chúng ta phải đưa bổ ngữ trạng thái vào trong câu so sánh,vì chỉ có BNTT mới
nói rõ được mức độ của động tác và khi đó bổ ngữ trạng thái được dùng theo hai
cách (dịch ngược, dịch xuôi) như sau:
Tôi
viết nhanh hơn cô ấy một tý我写得比她快一点/我比她写得快一点wǒxiěde
bǐtākuàiyīdiǎn/ wǒbǐtā xiědekuàiyīdiǎn.
– Khi so sánh về động tác mà lại có thêm tân ngữ thì phải lặp lại động
từ, vì đây vốn thuộc về bổ ngữ trạng thái:
Tôi
viết chữ nhanh hơn cô ấy một tý我(写)字写得比她快一点/
我写字比她写得快一点wǒ
(xiě)zì xiě de bǐtākuàiyīdiǎn /
wǒxiězì bǐtā xiědekuàiyīdiǎn.
Bọn họ đến sớm hơn tôi 10 phút他们来得比我早十分钟tāmenláide bǐwǒ zǎoshífēnzhōng.
Tôi lớn hơn em trai 2 tuổi我比弟弟大两岁wǒbǐdìdi dàliǎngsuì.
* Bổ ngữ số lượng trong tiếng Trung
theo cách giảng dạy ngày trước thông thường chia làm ba loại: (bổ ngữ danh lượng,
bổ ngữ động lượng và bổ ngữ số lượng), lúc trước nhiều người nói có 8-9 loại.
Chẳng hạn bổ ngữ trạng thái lại chia làm 2 loại là bổ ngữ phương thức và bổ ngữ
trạng thái.
Bây theo ngữ pháp tiếng Hán hiện đại
thì quy nạp lại thành 7 loại, mình nghĩ giải thích thế nào hoặc có mấy loại
cũng không quan trọng, quan trong hơn hết là kết quả có thể giúp học viên học tốt
là được. Người Trung Quốc nhiều người cũng đâu có biết bổ ngữ, đây là một cách
phân tích ngữ pháp giúp người Việt dễ học hơn, vậy thì cứ phương pháp nào đơn
giản và hiệu quả là áp dụng là được.
Tới đây là kết thúc bài học về Bổ Ngữ Số Lượng rồi, hẹn gặp các bạn trong bài học sau nhé?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét