HOA NGỮ NHỮNG NGƯỜI BẠN
SÁU THỰC TỪ TRONG TIẾNG TRUNG: (danh từ)
Danh từ (là một cái
tên). Xác định được là Danh từ thì lại
tiếp tục xác định nó là Đồng Vị hay là Chủ Vị. Nếu là Đồng Vị thì dịch xuôi,
nếu là Chủ Vị thì dịch ngược. Hãy xem cách phân tích từ Đồng Vị và Chủ Vị ở
dưới đây
– Từ Đồng Vị là những từ ngang hàng với
nhau, không phân chia chính phụ (chúng đều là những cái tên, và thường không có
nghĩa gì hết), khi dịch thì phải dịch xuôi. Đây chính là điểm đột phá cho những
giáo viên thường nói với học sinh “Danh từ đầu câu dịch ngược – Động từ đầu câu
dịch xuôi” .
例如lì
rú – ví dụ:Việt Nam越南yuè
nán (Việt là một danh từ, Nam cũng là một danh từ, hai danh từ đó ghép lại với nhau nhưng không có nghĩa gì cả vì chúng chỉ
là một cái tên, vì thế sẽ được dịch xuôi vì chúng là từ đồng vị).
Sơn
Thủy山水shān
shuǐ (Sơn là tên của một người, Thủy cũng là tên của một người chúng được ghép
lại với nhau nhưng lại chẳng có nghĩa gì vì chúng chỉ là một cái tên, vì thế sẽ
được dịch xuôi vì chúng là từ đồng vị).
Hưng Ngọc兴玉 xìngyù (Hưng là một cái tên, Ngọc
cũng là một cái tên, đây chỉ là hai tên người chứ không có nghĩa gì, do vậy
cũng dịch xuôi).
Bình Dương平阳píngyáng Nguyễn
thị Lan阮氏兰ruǎnshìlán
Đông Nam Bắc东南北dōngnánběi Ngữ pháp语法 yǔfǎ
Trung Quốc中国zhōngguó Thế giới世界shìjiè
– Từ chủ vị là những từ có phân chia lớn
nhỏ, chính phụ (chúng có nghĩa của chúng). Phải chú ý
trong tiếng Việt gọi là câu chủ vị là vì có
chủ ngữ và vị ngữ, trong tiếng Hoa lại gọi bằng câu chính phụ vì nó dịch
ngược. Cái chính trong tiếng Việt (trung tâm ngữ) thường đứng ở phía trước, cái
chính của tiếng Hoa (trung tâm ngữ) lại ở phía sau. Đây chính là nguyên nhân giải
thích vì sao tiếng Hoa ngược với tiếng Việt.
例如lì
rú – ví dụ:người Việt Nam越南人yuè
nán rén. Nếu nói Việt Nam thì 2 từ này vẫn là đồng vị, nhưng thêm từ người thì
biến thành chủ vị rồi, vì hiện nay ta đang nói về người, còn VN chỉ là từ hỗ trợ
cho biết người ở đâu.
Bút
đỏ红笔
hóng bǐ cũng là từ chủ vị, vì ta đang nói đến cây bút, từ “hóng” thì chỉ hỗ trợ
cho từ bút.
Tiệm Hưng Ngọc兴玉店xìngyù diàn (cũng vậy nếu nói Hưng Ngọc thì vẫn là Đồng vị, nhưng khi nói
tiệm Hưng Ngọc thì có nghĩa rồi, do vậy dịch ngược)
Xe Bình Dương平阳车píngyáng chē
Bố của Nguyễn thị Lan阮氏兰的爸爸ruǎnshìlán debàba
Hướng Đông Nam Bắc东南北向dōngnánběi xiàng
Sách ngữ pháp语法书 yǔfǎ shū
Bút Trung Quốc中国笔zhōngguó bǐ
Thế giới mới新世界xīn shìjiè
– Danh từ đầu câu dịch ngược (nếu toàn bộ đều là danh từ thì dịch ngược không dùng “de”, nếu muốn nhấn mạnh thì dùng): xe Việt Nam越南 (的) 车yuènán (de) chē
– Danh từ đầu câu dịch ngược [nếu phía
sau danh từ chính có các thành phần khác (động từ, tính từ, số từ...) thì phải
thêm từ “de”ở trước danh từ chính]:
Xe đến Việt Nam来越南的车láiyuènán de chē.
– Danh từ đầu câu dịch ngược, khi dịch ngược xuất hiện 2 tình huống (toàn
bộ đều là danh từ thì không dùng “de”, muốn nhấn mạnh thì dùng, nếu phía sau
danh từ chính (danh từ ở đầu câu) mà có các thành phần khác thì phải dùng “de”
trước danh từ chính (đừng dịch danh từ chính, mà dịch từ phía sau nó hết về
sau, sau đó nói “de” + danh từ chính) ].
– Bút Bình Dương: Danh từ đầu câu dịch ngược, vì toàn bộ đều là danh từ
cho nên dịch ngược mà không cần dùng “de”)平阳笔píngyángbǐ.
– Bút ở Bình Dương: Danh từ đầu câu dịch ngược, nhưng sau danh từ có động
từ cho nên dịch ngược và để “de” ở trước danh từ chính (danh từ chính là bút)]在平阳的笔zàipíngyáng debǐ.
–
Danh từ: (khi trùng
điệp từ thứ 2 biến thành thinh khanh)
Trên
thực tế danh từ không có hình thức lặp lại, theo cách hiểu của mình thì ngoài từ
“人人– rénren – người người” ra thì dường như các
bạn khó có thể tìm ra từ thứ 2 đâý.
Từng
có nhiều người nói với mình: 天天,年年,đó không phải là danh từ trùng điệp sao? Lại hài nữa rồi. 天天,年年 ở trong tiếng Việt quả thật là
danh từ đúng nghĩa, nhưng trong tiếng Trung thì không phải như vậy đâu, chúng
là những danh lượng từ (vừa là danh từ, vừa là lượng từ).
Nếu mình nói: năm mới 新年xīnnián, năm tốt好年hǎonián, thì chúng là danh từ đúng nghĩa không sai.
Chủ nhật星期天xīngqītiān, trời nắng 晴天qíngtiān, chúng cũng là danh từ.
Nhưng nếu mình nói: một năm, ba ngày thì liệu có còn là danh từ không nhỉ (theo
quy ước từ nào đứng sau số từ thì từ đó là lượng từ, chẳng hạn nói: Một cuốn
sách一本书yī běnshū,
như đã biết “本” chính là lượng
từ vì nó ở sau số từ. Và cứ vậy từ “天”trong “一天” và từ
“年” trong “一年” cũng nhất định phải là lượng từ mà.
Một số bạn lại hỏi mình thế 家家jiājia / nhà nhà, thì sao? Từ “家” trong tiếng Trung cũng là “danh lượng từ” 一家公司yījiā gōngsī / một cái công ty, thì nó không phải lượng từ sao?
Nhân tiện mình sẽ liệt kê luôn vậy:
Chị gái 姐姐jiějie, Ba 爸爸bàba, Má妈妈māma, Bác伯伯bóbo,
Tất cả các từ ở trên mặc dầu đều là danh từ,
nhưng chúng ta cũng không thể xem như trùng điệp. Chúng là những từ hợp thành,
người Trung Quốc khi xưng hô hoặc nói về một ai họ thường nói 2 âm trở lên, nó
giống như một sở thích, một trào lưu,tựa như ở Việt Nam có một số ca sỹ, người
nổi tiếng họ muốn người khác chú ý, tạo ấn tượng nên cũng dùng 2,3 chữ đó mà (Mỹ
Tâm, Hoài Linh, Đàm vĩnh Hưng...)
Chú ý:nếu danh từ chỉ người (tiểu Vương,
Hoàng Ling, giám đốc Mã...), danh từ chỉ nơi chốn (Bình Dương, Việt Nam, Trung
Quốc...), danh từ chỉ phương vị (trên, dưới, trong, đông, tây...), danh từ chỉ
thời gian (buổi sáng, hôm nay, chủ nhật...). tất cả các danh từ đó hường hay được
ưu tiên làm chủ ngủ ngữ hoặc được ở phía trước kể cả động từ, riêng từ chỉ thời
gian có thể ở trước hoặc sau chủ ngữ đều được.
Tiểu Vương hết tiền rồi小王没钱了xiǎowáng méiqiánle.
Giám đốc Mã hôm nay không đến马经理今天不来mǎjīnglǐ jīntiān bùlái.
Bình Dương ở
vào Đông Nam bộ của Việt Nam平阳位于越南的东píngyángwèiyú yuènánde dōngnánbù.
Có một cuốn
sách trên bàn 桌子上有一本书zhuōzishang yǒuyīběnshū.
Tôi làm buổi
sáng, nó làm buổi tối我早上做,他晚上做wǒzǎoshangzuò, tāwǎnshangzuò.
Tôi dậy lúc
7h sáng (7h sáng tôi dậy)我早上七点起床/早上七点我起床wǒzǎoshang qīdiǎn qǐchuáng/ zǎoshang qīdiǎn
wǒqǐchuáng.
BÀI HỌC ĐÃ KẾT THÚC. HẸN GẶP LẠI TRONG BÀI SAU NHÉ?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét